Chi trả dịch vụ môi trường là gì?

Hệ sinh thái có vai trò hết sực quan trọng đối với đời sống con người thông qua việc cung cấp các dịch vụ. Các nhà sinh thái học đã xác định 4 nhóm dịch vụ mà các hệ sinh thái cung cấp, còn gọi là dịch vụ môi trường[1], bao gồm:

– Dịch vụ sản xuất: thực phẩm, nước sạch, nguyên liệu, chất đốt, nguồn gen, v.v…
– Dịch vụ điều tiết: phòng hộ đầu nguồn, hạn chế lũ lụt, điều hoà khí hậu, điều tiết nước, lọc nước, thụ phấn, phòng chống dịch bệnh, v.v…
– Dịch vụ văn hoá: giá trị thẩm mỹ, quan hệ xã hội, giải trí và du lịch sinh thái, lịch sử, khoa học và giáo dục, v.v…
– Dịch vụ hỗ trợ: cấu tạo đất, điều hoà dinh dưỡng, v.v…

Trên thực tế, những người bảo tồn, gìn giữ và phát triển các dịch vụ môi trường chưa được hưởng những lợi ích xứng đáng mà xã hội phải trả cho các nỗ lực của họ. Còn những người sử dụng các dịch vụ này chưa chi trả cho những dịch vụ mà họ được hưởng. Hậu quả là việc cung cấp và sử dụng dịch vụ môi trường đó không bền vững. Trong bối cảnh này, “Chi trả dịch vụ môi trường (Payment for Environment Services – PES)” được xem là cơ chế nhằm thúc đẩy việc tạo ra và sử dụng các dịch vụ môi trường bằng cách kết nối người cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ. Chi trả dịch vụ môi trường (PES) là công cụ kinh tế yêu cầu những người được hưởng lợi từ các dịch vụ hệ sinh thái chi trả cho những người tham gia duy trì, bảo vệ và phát triển các chức năng của hệ sinh thái đó. Nguyên tắc cơ bản của PES là tổ chức, cá nhân được hưởng lợi từ những dịch vụ môi trường phải chi trả (User pays) cho những người sử dụng tài nguyên để cung cấp các dịch vụ môi trường đó (Provider gets). Dựa vào tiềm năng chi trả của các dịch vụ, người ta chia PES thành 4 loại, bao gồm:

– Bảo vệ rừng đầu nguồn: cung cấp dịch vụ chất lượng nước, điều tiết nước, bảo vệ nơi cư trú dưới nước và kiểm soát ô nhiễm     đất, v.v…;
– Bảo tồn đa dạng sinh học: phòng trừ dịch bệnh, giá trị hệ sinh thái, v.v…;
– Hấp thụ cácbon: biến đổi khí hậu (rừng hấp thụ cacbon làm giảm khí nhà kính), v.v…;
– Vẻ đẹp cảnh quan/Du lịch sinh thái: giá trị thẩm mỹ và giá trị văn hoá, v.v…

Thử nghiệm chi trả dịch vụ môi trường rừng ở Việt Nam

  • Quyết định 380/QD-TTg

Ngày 10/4/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 380/QĐ-TTg về chính sách thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng ở Việt Nam. Mục đích của việc thí điểm này là tạo cơ sở cho việc xây dựng khung pháp lý về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, thực hiện xã hội hoá nghề rừng, bảo vệ rừng đầu nguồn và hệ sinh thái, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ, đảm bảo nguồn nước cho thuỷ điện và các hoạt động kịnh doanh du lịch. Địa điểm được lựa chọn thí điểm là các tỉnh Lâm Đồng, Sơn La, Đồng Nai, Hoà Bình, Bình Thuận, Ninh Thuận và Tp.Hồ Chí Minh với thời gian thực hiện là 2 năm. Ngoài ra Quyết định cũng quy định rõ đối tượng áp dụng, phân loại dịch vụ môi trường rừng, các hình thức, mức và nguyên tắc chi trả; quyền và nghĩa vụ của người được chi trả và người chi trả và một số quy định khác như trách nhiệm của các bên liên quan, kinh phí thực hiện thí điểm,… Thực hiện Quyết định này, Dự án thí điểm về chi trả dịch vụ môi trường rừng đã được triển khai tại tỉnh Sơn La với sự hỗ trợ của cơ quan Hợp tác kỹ thuật CHLB Đức (GTZ), tại tỉnh Lâm Đồng với sự hỗ trợ của tổ chức Winrock International.

  • Kết quả thực hiện

Tại Sơn La bên sử dụng dịch vụ được xác định là các nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình, nhà máy thuỷ điện Suối Sập, công ty Cấp nước Phù Yên và công ty Cấp nước Mộc Châu, bên cung cấp dịch vụ là các chủ rừng trên địa bàn 2 huyện thí điểm Mộc Châu và Phù Yên. Mức chi trả của từng công ty được xác định dựa trên tổng lượng điện/tổng lượng nước kinh doanh hàng năm trong đó đối với 1Kwh là 20 đồng, 1m3 nước là 30 đồng và bình quân/ha là 100.432 đồng. Tại Lâm Đồng, chương trình thí điểm đã nhận được sự đồng thuận cao của các bên liên quan và hiện nay các nhà máy thuỷ điện Đa Nhim và Đại Ninh đang chi trả khoảng 55 tỷ đồng (~2,8 triệu USD) cho hơn trong đó hơn 8.000 hộ dân bảo vệ rừng được hưởng thu nhập bình quân từ 8,1 đến 8,7 triệu đồng/năm, cao gấp ba lần so với thu nhập nhận khoán trước đây để bảo vệ hơn 203 nghìn ha rừng. Nhiều hộ dân làm đơn xin được nhận khoán thêm diện tích rừng để bảo vệ, phát triển. Người dân tuần tra, kiểm tra rừng thường xuyên hơn, đơn vị chủ rừng, hộ nhận khoán rừng và chính quyền địa phương phối hợp chặt chẽ hơn. Tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng, khai thác lâm sản trái phép ở hai tỉnh đã giảm đáng kể. Lâm Đồng cũng là tỉnh đầu tiên thành lập Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng và cho đến nay Quỹ đã ký hợp đồng với 768 hộ gia đình với kinh phí khoảng 25 tỷ đồng (~1,2 triệu USD) để bảo vệ 35.000 ha rừng.

Xây dựng chính sách quốc gia về chi trả dịch vụ môi trường rừng

Sau 2 năm triển khai thực hiện thí điểm, mới đây tại Hội nghị quốc tế về chi trả dịch vụ môi trường rừng Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải đã khẳng định Việt Nam sẽ sớm chính thức triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng trên cả nước, tạo cơ sở kinh tế bền vững để bảo vệ, phát triển rừng. Về cơ sở pháp lý, chi trả dịch vụ môi trường rừng đã được đề cập trong một số văn bản quy phạm pháp luật như Luật bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Đa dạng sinh học, Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020. Hiện nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang được Thủ tướng Chính phủ giao chủ trì xây dựng Nghị định về chi trả dịch vụ môi trường rừng và dự kiến sẽ được ban hành trong năm 2010. Dự thảo nghị định được xây dựng gồm 5 chương với 26 điều: – Chương I: Quy định chung (điều 1- điều8); – Chương II: Quản lý và sử dụng tiền theo hình thức chi trả trực tiếp (điều 9- điều 19); – Chương III: Quyền và nghĩa vụ của bên sử dụng và bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng (điều 20-điều 21); – Chương IV: Tổ chức thực hiện (điều 22 – điều 24) – Chương V: Điều khoản thi hành (điều 25 – điều 26). Theo bản Dự thảo của Nghị định thì rừng được chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng là các khu rừng có cung cấp một hay nhiều dịch vụ môi trường rừng gồm rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất với 5 loại dịch vụ môi trường: – Bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông; – Điều tiết và duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội; – Hấp thụ và lưu giữ các bon; – Bảo vệ cảnh quan tự nhiên của các hệ sinh thái rừng phục vụ cho dịch vụ du lịch; – Cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên cho nuôi trồng thuỷ sản. Và 2 hình thức chi trả: – Chi trả trực tiếp: là bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng trả tiền trực tiếp cho bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng theo nguyên tắc thỏa thuận; – Chi trả gián tiếp: là bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng ủy thác qua Quỹ bảo vệ và phát triển rừng trả tiền cho bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Dự thảo Nghị định cũng quy định đối tượng và loại dịch vụ, đối tượng được chi trả, mức, hình thức chi trả và các nội dung khác như chi phí giao dịch trong quá trình thực hiện chi trả, nhiệm vụ của Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng, trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan,…

Các văn bản liên quan

  • Luật Bảo vệ và Phát triển rừng[2]
  • Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020[3]
  • Luật Bảo vệ môi trường[4]
  • Luật Đa dạng sinh học[5]
  • Quyết định 380/QĐ-TTg [6]
  • Dự thảo Nghi định về chi trả dịch vụ môi trường rừng

Các trang web liên quan

www.monre.gov.vn [7]

www.mard.gov.vn [8]

www.law.omard.gov.vn [9]